20. Phải vâng lời thầy Thu có thói hay dậy trưa. Cha mẹ chiều (41) anh, vì anh là con một, nên không quở mắng gì. Song có người nói đến tai thầy giáo biết, một hôm thầy bảo anh Thu rằng: "Dậy trưa là một nết xấu. Nếu con dậy trưa, thì con đi học muộn (trưa), mất thời giờ mà lại làm ngăn trở cả việc học hành của bạn con nữa. Từ rày con phải tập dậy sớm mới được." Từ hôm ấy trở đi, sáng nào anh Thu cũng dậy sớm và trước giờ học, anh đã đến trường rồi. Thu là học trò biết vâng lời thầy. Phải vâng lời thầy. Thầy dạy bảo ta, là mong cho ta được hay. Vậy ta phải vui lòng mà vâng lời thầy. Nào là những kẻ học trò, Phải nghe thầy dạy mà lo sửa mình. ----- (41) chìu
21. Phải biết ơn thầy Tục ta thuở trước, cứ mồng năm ngày tết là học trò phải đến tết thầy. Không những khi còn đang học, mà khi đã thôi học rồi, có khi đã làm nên danh phận, cũng vẫn phải giữ lệ ấy. Học trò trọng thấy như cha vậy. Khi thầy mất thì học trò phải tống táng, phải trông nom (42) phần mộ, và đến ngày giỗ thì phải cúng tế. Ấy cái tục của ta ngày xưa trọng thầy như vậy. Phải biết ơn thầy. Thầy cũng như cha. Cha mẹ thì có công sinh thành, mà thầy thì có công giáo hóa. ta phải biết ơn thầy cũng như ơn cha mẹ. Giải nghĩa. - Sinh thành = đẻ ra và nuôi mình nên người. - Giáo hóa = dạy dỗ. Không thày đố mày làm nên. ----- (42) coi.
22. Phải thật thà với thầy Thầy giáo đang viết bài trên bảng. Bỗng chốc ở đàng cuối lớp có tiếng động, và mấy cậu học trò cười khúc khích. Thầy ngoảnh lại hỏi rằng: "Đứa nào nghịch (43) gì đấy?" Học trò ngồi im (44), không ai nói gì cả. Sau thấy anh Sáu đứng dậy thưa rằng: "Thưa thầy, con lỡ tay đánh rơi hộp bút (45), xin thầy tha cho con." Thầy nói: "Nghịch ở trong lớp thế là có lỗi, đáng lẽ phải phạt, song mày đã biết thú thật, thì ta tha cho. Từ rày đừng nghịch thế nữa." Phải thật thà với thầy. Bao giờ ta cũng phải nói thật với thầy. Nếu đã làm điều gì trái, thì ta phải thú ngay. Ta không nên nói dối, vì nói dối là một thói rất xấu. Đã lòng tri quá thì nên. ----- (43) rắn mắt. (44) nín. (45) viết.
23. Chuyên cần Thằng Tạ ở nhà cắp sách ra đi học. Nhưng kỳ thật nó trốn học, đi chơi. Cha nó bắt được nó đang trèo lên cây để lấy tổ (46) chim, gọi (47) xuống rồi đem đến trường học mách thầy. Thầy giáo phạt Tạ và mắng Tạ rằng: "Mày trốn học như vậy, tôi nặng lắm. Ở nhà nói dối cha, đến trường nói dối thầy. Từ rầy phải chừa, phải đi học cho chuyên cần." Chuyên cần. Học hành phải chuyên cần. Đi học mà buổi có buổi không, chẳng những thiệt cho mình, mà lại thất lễ với thầy nữa. Học trò trốn học đi chơi là học trò hư. Giải nghĩa. - Chuyên cần = siêng năng, chăm chỉ. Học tinh ư cần. ----- (46) ổ (47) kêu
24. Đi học phải đúng giờ Thằng Mùi và con Quý cắp sách đi học. Mẹ dặn rằng: "Phải đi cho mau, đừng có nghênh (48) ở đường nhé! Tao thấy nói chúng bay hay đến trường chậm lắm đấy." - "Vâng, chúng con đi thật nhanh (lanh)." Nói rồi, cả hai đứa cùng chạy. Chạy được một lát, chúng nó dừng lại, nghỉ bên mé đường, rồi lại chạy. Gặp thằng bé (49) chăn trâu, lại đứng nói chuyện một lúc, rồi lại chạy. Cách một quãng, gặp một người mài dao, thấy hay hay, chúng nó đứng lại xem. Xem một lát, sực nhớ đến trường lại cắm đầu chạy để đến cho kịp giờ; nhưng đến trường, thì học trò vào học đã lâu rồi. Đi học phải đúng giờ. Đi học ta phải trông (50) đồng hồ để liệu đến trường cho đúng giờ. ta không nên vơ vẩn dọc đường. Nếu đến trễ thì không những mất thì giờ của mình, mà lại ngăn trở cả viêc học của bạn nữa. Đi đến nơi, về đến chốn. ----- (48) vác mặt (49) nhỏ (50) coi
25. Lòng tốt đối với bạn Bảy. Hôm nay nghỉ, ta đi chơi đi. Tám. Không, tôi còn muốn đi đàng này kia. Bảy. Đi đâu? Tám. Anh Chín mệt, nghỉ học đã mấy hôm nay, tôi muốn đến thăm anh ấy. Bảy. Đến làm gì! Nói chuyện với người ốm (51) thì còn có gì thú? Tám. Anh nghĩ nhầm (lầm)! Nói chuyện với bạn mà lại không thú! Dễ cứ nô đùa (52), thì mới thú hẳn! Anh Bảy còn ngần ngừ, anh Tám lại nói rằng: "Anh thử nghĩ xem: giá anh yếu (53) mà nằm buồn một mình, thì anh có muốn cho bạn đến chơi không? Ta đến, ta kể chuyện nhà trường cho anh Chín nghe, chắc anh ấy cũng đỡ buồn." Bảy. Ừ thì tôi cũng đi với anh. Lòng tốt đối với bạn. Anh em bạn học cùng một trường, sớm trưa có nhau phải yêu mến nhau như anh em một nhà, ở với nhau phải giữ hết lòng trung hậu. Bạn bút nghiên một sách một đèn. ----- (51) đau (52) trửng dỡn (53) đau
26. Phải biết chiều bạn Ba. Tôi muốn đến chơi anh Năm, anh có đến không? Tư. Có. Nội các bạn trong trường, tôi thích anh ấy nhất, vì anh ấy biết nhường nhịn bạn, không để ai mất lòng bao giờ. Ba. Phải, anh ấy có tính tốt, hay chiều (54) lòng bạn. Anh ấy biết rằng tôi thích đi câu, nên hễ đi chơi với tôi, anh chỉ nói chuyện đi câu cho tôi nghe. Không những thế, mà hễ anh ấy đi câu bao giờ, cũng lại rủ tôi. Tư. Chả bù với anh Sáu nhỉ? Chỉ biết có mình thôi, mà chơi thì cứ muốn cho ai cũng phải theo mình. Ba. Phải, như anh Sáu thế là người không tốt. Phàm chơi với bạn, có biết chiều lẫn nhau như anh Năm thì mới vui vẻ. Phải biết chiều bạn. Anh em chơi với nhau, phải biết tính nhau và phải biết chiều nhau, thì mới được vui vẻ. Dễ người dễ ta. ----- (54) chìu
27. Bênh vực kẻ yếu Mão lủi thủi cắp (59) sách đi về nhà một mình. Bỗng có mấy đứa vô cớ đến trêu ghẹo, rồi đuổi đánh. Mão kêu khóc rầm rĩ. Tí cũng vừa đi học về đến nơi, thấy có người ăn hiếp bạn, vội vàng chạy lại bênh. Tí cũng chẳng khỏe gì, nhưng hăng lên, xông vào đánh. Lũ trẻ kia phải bỏ chạy. Tí đến cầm tay Mão, bảo rằng: "Anh đừng sợ. Đã có tôi. Tôi đưa anh về nhà." Tí thật đã hiểu cái bổn phận của kẻ mạnh là phải bênh vực kẻ yếu. Bênh vực kẻ yếu. Ta có sức khỏe hơn người, ta chẳng nên cậy khỏe mà ăn hiếp người. Ta phải đem sức khỏe mà bênh vực kẻ hèn yếu. Kẻ mạnh phải bênh vực kẻ yếu. ----- (58) nhỏ (59) cặp
28. Giúp đỡ lẫn nhau Ở trường chúng tôi có anh Ngọ rất tử tế. Lúc ở trong lớp, ai thiếu cái bút (60) chì hoặc cái thước, thì anh cho mượn. Lúc chơi ngoài sân, anh có cái gì cũng cho bạn chơi chung và không hề cãi nhau với ai bao giờ. Hôm nọ anh Ba ngã (61) (bổ), anh vội chạy lại đỡ dậy, rồi lau mặt và phủi quần áo hộ (62). Hôm qua lúc tan học, trời mưa, Năm quên đem dù đi, anh bảo Năm cùng đi một dù với anh và đưa về đến tận nhà. Anh giúp được ai việc gì, thì anh không nề hà (63) bao giờ. Giúp đỡ lẫn nhau. Anh em cùng học một trường phải giúp đỡ lẫn nhau. Khuyên bảo nhau đã là hay rồi, mà giúp đỡ lẫn nhau lại là hay hơn nữa. Giải nghĩa. - Không nề hà = không quản công. Chị ngã em nâng. ----- (60) cây viết (61) té (62) giùm (63) suy nệ
29. Nghĩa hợp quần Thầy trò đi chơi, ngồi nghỉ chân trước cửa chùa. Thấy một người trèo lên cây gạo, định phá cái tổ (55) quạ. Có hai con quạ trong tổ bay ra kêu ầm lên. Một chốc (56) thấy bao nhiêu quạ tứ phía bay đến, xúm lại đánh người kia bù cả đầu, toạc cả mặt, phải vội vàng trụt xuống. Thầy giáo thấy thế, nhân dịp (nhịp) bảo học trò rằng: "Lũ quạ biết bênh vực nhau như vậy, tức là cái nghĩa hợp quần đấy. Các con nên coi gương ấy mà bắt chước. Các con phải yêu mến nhau, giúp đỡ nhau, đùm bọc lấy nhau như con một nhà". Nghĩa hợp quần. Học trò một trường phải coi nhau như ruột thịt một nhà. Phải quây quần đùm bọc lấy nhau: phúc cùng hưởng, họa cùng đau. Giải nghĩa. - Hợp quần = nhiều người họp nhau lại mà bênh vực nhau. Một cây làm chẳng nên non, Ba cây giụm lại nên hòn núi cao. ----- (55) ổ (56) chút
30. Chọn bạn mà chơi Anh Năm ở xa mà hôm nào đi học cũng đúng giờ. Ở lớp học, anh có ý tứ và chăm chỉ. Bài học bao giờ cũng thuộc, bài làm bao giờ cũng hay, nên anh được ngồi trên. Đến giờ nghỉ, anh chơi tử tế với cả mọi người. Buổi tan học, anh không chơi vơ vẩn dọc đường. Ở nhà, lúc làm xong bài, anh lại giúp đỡ cha mẹ. Thầy giáo được một người học trò tốt như anh Nam, lấy làm vui vẻ. Mà chúng tôi được một người bạn tốt, cũng lấy làm sung sướng. Ai nấy cũng muốn bắt chước anh Năm, cố làm cho được hay như anh. Chọn (57) bạn mà chơi. Anh em bạn học, ai hay thì ta năng lui tới và cố bắt chước lấy cái hay. Ai dở thì chớ nên gần và cố làm điều hay cho người ta bắt chước. Gần đèn thì sáng. ----- (57) lựa
31. Phải sạch sẽ Khiết là một đứa bé ở sạch. Sáng dậy nó rửa mặt, rửa cổ, rửa tay. Rồi chải đầu, mặc áo, đi giày thật tiêm tất. Khi nó viết, nó giữ không dể mực dây ra tay. Sách vở của nó bao bọc sạch sẽ. Khi nó chơi, nó giữ gìn quần áo, không để lấm, không làm rách. Phải sạch sẽ. Ta phải giữ thân thể, quần áo, sách vở cho thật sạch. Có sạch thì người ta mới ưa. Bẩn thỉu (64) (nhớp nhúa) thì ai cũng ghét. Giải nghĩa. - Tiêm tất = gọn gàng, tử tế. Đói cho sạch, rách cho thơm. ----- (64) dơ dáy
32. Có thứ tự Năm là một đứa bé có thứ tự. Áo nó treo trên mắc, đồ chơi có xếp vào hòm (65); sách, vở, bút, thước nó để trên bàn, hay xếp trong cặp; vật nào chỗ ấy, đầu vào đấy cả. Nên không hay mất mát bao giờ, và khi cần đến cái gì là thấy ngay (66), không phải mất công, mất thời giờ đi tìm. Có thứ tự. Đồ vật xếp đặt có ngăn nắp, công việc làm ăn có trước sau, thế là có thứ tự. Thứ tự là một tính tốt. ta phải tập cho có thứ tự ngay từ kúc còn bé. Việc làm phải có thứ tự. ----- (65) rương (66) liền
33. Phải chú ý Sáu là đứa bé hay đãng trí. Ở lớp học, nó chỉ thích nói chuyện, hay là nghênh (67) ra ngoài sân. Sáng hôm nay, thầy giáo hỏi học trò:"Các anh có biết con vật nào là vật to hơn cả không?" Sáu không để tai nghe câu hỏi của thầy, đứng dậy đáp ngay rằng: "Thưa thầy con ạ". Anh em cười ầm lên. Thầy giáo cũng bật cười mà bảo rằng: "Mày là con vật à? Nếu mày học hành cứ lơ đễnh như thế, thì ngày sau dốt nát, cũng chẳng khác gì con vật". Phải chú ý. Lúc học, ta không nên đãng (lãng) trí. Ta phải chú ý vào lời thầy giảng, thì học mới chóng tấn tới. Học mà không chú ý, thì chẳng học được gì cả. ----- (67) vác mặt
34. Phải làm lụng Cha anh làm việc cả ngày ở ngoài đồng hay trong xưởng thợ. Mẹ anh bán hàng ở ngoài chợ. Chị anh coi sóc các anh và trông nom (68) cơm nước. Thợ nề làm nhà; thợ rèn rèn sắt; thợ dệt dệt vải; thợ may may quần áo. Thầy thuốc chữa bệnh; thầy giáo dạy học trò. Con ong gây (gầy) mật; con chim làm tổ (69) hay đi kiếm mồi về nuôi con. Các anh xem có phải là muôn vật trong trời đất này đều làm việc cả không. các anh còn nhỏ, chưa làm được việc gì, nhưng các anh cần phải học hành để ngày sau làm được việc có ích cho mình, cho xã hội. Phải làm lụng. Ở đời ai cũng phải làm. Có làm thì mới có ăn. làm việc là cái bổn phận thứ nhất của người ta. Giải nghĩa. - Xưởng = nơi có nhiều thợ làm việc. - Gây = cũng nghĩa như làm. Có khó mới có miếng ăn. ----- (68) coi (69) ổ
35. Phải chăm học Một buổi chiều, cơm nước xong, thầy anh Sửu gọi anh mà bảo rằng: "Ta nghe trong mình nhọc mệt, mà mẹ con thì cũng già yếu rồi. Vậy từ mai trở đi thì con thôi học, ở nhà để giúp đỡ thầy mẹ." Mấy lời đó làm cho anh Sửu buồn bã vô cùng. Từ khi anh đi học, nào có thiết gì đến học! Anh chĩ mê chơi, nay nghỉ, mai nghỉ. Bây giờ phải thôi học, thành ra dở dang, chẳng biết gì cả. Ấy cũng vì lúc đi học, anh không chuyên cần chăm chỉ nên mới chịu dốt cả đời. Phải chăm học. Ta phải chăm học. Không nên hơi váng đầu, sổ mũi đã lấy nê (cớ) mà xin nghỉ. Việc gì nên làm thì làm ngay, đừng để chậm trễ. Có chăm học thì mới nên.
36. Đứa học trò xấu Thằng Đông là đứa trẻ hư lắm. Nó lơ đễnh và làm biếng, nên học hành không tấn tới. Nó hay khoe khoang và kiêu ngạo, hay sinh sự cãi nhau với anh em, nên không ai muốn chơi với nó. Ở nhà, cha mẹ bảo nó điều gì nó cũng không nghe. Thằng Đông lại vô phép vô tắc, nói dối nói dá (trá), nên ai cũng ghét. Nếu nó không chịu sửa mình lại, thì ngày sau sẽ khổ đến thân. Đứa học trò xấu. Đứa học trò xấu làm phiền cho thầy và cho cha mẹ, làm gương xấu cho anh em bạn ta. Ta không nên chơi với nó. Gần mực thì đen.
37. Lười biếng (nhác nhớn) Học trò đã vào học được một lúc rồi, mới thấy thằng Đông mở cửa vào. Nó đến trễ vì nó ngủ trưa. Ấy là còn khá, có hôm nó còn giả ốm (70) để nghỉ học ở nhà. Nó lười (71) biếng như thế, cho nên đi học đã hơn sáu tháng, mà chưa đọc được, chưa viết được quốc ngữ. Thầy giáo quở phạt nó luôn. Nếu nó không chăm bọc, thì rồi nó chịu dốt suốt đời. Lười (72) biếng (nhác nhớn). Người lười (73) đã không làm được việc gì, lãi còn ăn hại. Ai lười (74) biếng thật là đáng khinh bỉ. Cần hữu công, hí vô ích. ----- (70) đau (72) biếng nhác (73), (74) làm
38. Không có thứ tự Thằng Lân là một đứa bé nết na, nhưng nó phải cái tật không có thứ tự. Trong phòng nó ở, đồ đạc, chăn (75) chiếu ngổn ngang. Quần áo bạ đâu bỏ đó. Giày thì chiếc ở gậm giường (76), chiếc ở xó cửa. Trên bàn, sách vở bề bộn, quyển (77) thì rách gáy, mất bìa, quyển thì nhọ nhem (lọ lem) những mực. Bình mực thì không có nút, quản bút (78) thì không có ngòi. Thằng Lân không có thứ tự như thế, nên lúc nó cần đến cái gì, phải tìm (79) mãi mới thấy. Không có thứ tự. Đồ vật để bừa bộn, công việc làm hồ đồ, thế là không có thứ tự. Người không có thứ tự thường hay rối việc, mất thời giờ. Không có thứ tự, Thì hay tốn công hỏng việc. - - - (75) mền (76) dưới sàn (77) cuốn (78) viết (79) kiếm
39. Không có ý tứ Giấp có tính hay nghịch và làm cái gì cũng không có ý tứ. Ở bên láng giềng, người ta mua cát về đổ thành đống, để sắp làm nhà. Giấp đi qua hay nhảy vào giữa đống cát chơi. Một hôm, thợ nề đem vôi trộn với cát. Giấp không biết, cứ quen như mọi ngày, chạy từ xa nhảy vào giữa đống vôi, ngập quá đầu gối. Giấp không sao lôi chân lên được, kêu la rầm rĩ. Người láng giềng nghe tiếng, ra kéo nó lên, quấn áo lấm bết những vôi. Về nhà, cha mẹ trông (80) thấy, mắng đánh, Giấp kêu van xin chừa, từ nay không dám lơ đễnh (81) như thế nữa. Không có ý tứ. Không có ý tứ thường làm hỏng (82) (sai việc), và có khi nguy đến thân. Vậy làm việc gì ta phải có ý tứ và cẩn thận. Làm việc gì cũng phải có ý tứ. (80) ngó (81) đĩnh (82) hư